Trách Nhiệm Của Đại Lý Hải Quan / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Uqpx.edu.vn

Trách Nhiệm Của Đại Lý Hải Quan Là Gì?

Đại lý hải quan là thuật ngữ mô tả các công ty chuyên giải quyết các thủ tục hải quan xuất nhập khẩu để thông quan lô hàng cách nhanh chóng. Thông qua chữ kí và con dấu được cấp phép theo quy định của pháp luật. Là đơn vị đứng tên trên tờ khai hải quan, truyền thông tin khai báo thông qua hệ thống điện tử ECUS-VNACSS giúp doanh nghiệp giao nhận hàng hóa.

2. Khai thuê hải quan và đại lý hải quan

Khác biệt với dịch vụ khai thuê hải quan, đại lý hải quan làm việc thông qua các hợp đồng ủy quyền của doanh nghiệp, để đứng tên trên hệ thống hải quan điện tử, do đó trách nhiệm của đại lý cũng trở nên quan trọng hơn. Họ sử dụng chữ ký số của mình cho các hoạt động này, vì vậy nhằm giảm thiểu rủi ro thì yêu cầu cao về tính chính xác và chuyên nghiệp của yếu tố đầu vào, ở đây là nhân viên, luôn được lựa chọn khắc khe. Thêm nữa, quá trình để trở thành một đại lý hải quan uy tín không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn với cơ quan hải quan, các đại lý cần trải qua những công đoạn xác thực năng lực khắt khe và trung thực.

Trong khi đó, khai thuê hải quan không gánh trên mình trách nhiệm quá lớn vì họ chỉ thay mặt doanh nghiệp tiến hành các thủ tục khai báo mà không đứng tên trên bất cứ giấy tờ nào khác. Không như nhân viên đại lý, phải được cấp mã số nhân viên đại lý khai báo hải quan sau khi được cấp chứng chỉ của Tổng cục hải quan, người khai thuê có thể là bất kì ai, làm bất cứ công việc gì, chỉ cần có chút kiến thức trong lĩnh vực này. Không phủ nhận rằng những người làm dịch vụ khai thuê thường có kinh nghiệm thực tiễn bằng việc chạy hiện trường ngoài cảng, hay những công việc tương tự. Tuy vậy, kinh nghiệm họ có là những gì bản thân tự tiếp thu được mà không trải qua quá trình đào tạo bài bản, dẫn đến dễ lung túng trong những nghiệp vụ mới phát sinh, sự cập nhật thông tin từ những nghị định, thông tư cũng không nhạy bén so với nhân viên đại lý hải quan khi luôn có quy trình làm việc rành mạch.

Tóm lại, với hình thức nào thì cũng có những ưu, nhược điểm riêng, tuy nhiên ở bài viết này chúng tôi muốn đề cập nhiều hơn đến hình thức đại lý hải quan, đặc biệt cho cá nhân, tổ chức đang có nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa mà vẫn còn mơ hồ về các thủ tục hải quan, đang loay hoay tìm kiếm giải pháp hiệu quả cho doanh nghiệp của mình, thì tin rằng đại lý hải quan sẽ là một sự lựa chọ tuyệt vời.

Mọi chi tiết vui lòng liên hệ: [ 🇻🇳 Văn phòng Việt Nam ] CÔNG TY TNHH GIAO NHẬN TIẾP VẬN MEKONG 597/5B Nguyen Kiem Street, Ward 9, Phu Nhuan District, Ho Chi Minh City, Vietnam Call Center: 1900 636 944 / 028 730 99499 Hotline: 0919 877 622 / 0917 465 096 Email: info@mkg.com.vn Website: chúng tôi / www.mekonglogistics.vn Fanpage: www.facebook.com/MekongLogs

[ 🇰🇭 Văn phòng Campuchia ] MEKONG LOGISTICS (CAMBODIA) LTD 17B Street 384, Sangkat Toul Svay Prey 1, Khan Chamkarmon, Phnom Penh, Cambodia. Call Center: [+855] 0236 222 999 Hotline: (+855) 0977 866 999 Email: cambodia@mkg.com.vn Website: chúng tôi / www.chanhxediCampuchia.com Fanpage: www.facebook.com/VanchuyenhangdiCampuchia

Trách Nhiệm Của Các Bên Khi Thuê Đại Lý Làm Thủ Tục Hải Quan

Nhiều doanh nghiệp lựa chọn thuê các đại lý làm thủ tục hải quan để thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu. Vậy trách nhiệm của các bên trong quan hệ này là gì?

Căn cứ pháp lý:

– Thông tư số 12/2015/TT-BTC

– Thông tư số 22/2019/TT-BTC

1.Quyền, trách nhiệm của Đại lý làm thủ tục hải quan

– Quản lý, sử dụng mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan để tiến hành các công việc khai báo về làm thủ tục hải quan trong phạm vi được chủ hàng ủy quyền; Chịu trách nhiệm về việc giới thiệu, đề nghị Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cấp mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan cho người đáp ứng đủ điều kiện theo quy định; đăng ký thông tin mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan vào hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan để cơ quan hải quan cấp tài khoản kết nối hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử

– Yêu cầu chủ hàng cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng đại lý.

– Thông báo cho Tổng cục Hải quan thực hiện thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan đối với các trường hợp vi phạm quy định hoặc trường hợp đại lý làm thủ tục hải quan bị giải thể, phá sản hoặc chấm dứt hoạt động.

– Chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định kiểm tra, thanh tra thuế của cơ quan hải quan.

– Đại lý làm thủ tục hải quan có trách nhiệm:

a) Định kỳ vào ngày 05 của tháng đầu quý sau, báo cáo tình hình hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan

b) Báo cáo, đề nghị Tổng cục Hải quan thực hiện thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan, tài khoản kết nối hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử đối trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày phát sinh.

– Cung cấp đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết cho việc làm thủ tục hải quan của lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu cho đại lý làm thủ tục hải quan.

– Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan cung cấp cho đại lý làm thủ tục hải quan.

– Giám sát, khiếu nại việc thực hiện các nghĩa vụ của Đại lý làm thủ tục hải quan trong phạm vi được ủy quyền và chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định xử lý của cơ quan hải quan trong trường hợp đại lý làm thủ tục hải quan vi phạm các quy định của pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế.

– Đề nghị cơ quan hải quan chấm dứt làm thủ tục hải quan đối với lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu trong trường hợp phát hiện Đại lý làm thủ tục hải quan không thực hiện đúng các nghĩa vụ trong hợp đồng.

– Bố trí người làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính trực tiếp với cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật hải quan.

– Khi phát sinh hợp đồng đại lý làm thủ tục hải quan, chủ hàng thông báo danh sách đại lý làm thủ tục hải quan được thay mặt chủ hàng khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan trước khi đại lý làm thủ tục hải quan thực hiện việc khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; trừ các trường hợp sau:

a) Khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh theo quy định pháp luật về bưu chính và hải quan;

b) Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của các tổ chức, cá nhân không có mã số thuế;

c) Hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở Việt Nam gửi cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài; hàng hóa của cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Việt Nam và những người làm việc tại các cơ quan, tổ chức này; hàng hóa viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; hàng hóa là hàng mẫu không thanh toán; hàng hóa là hành lý cá nhân của người nhập cảnh gửi theo vận đơn, hàng hóa mang theo người nhập cảnh vượt tiêu chuẩn miễn thuế.

Prudential Có Trách Nhiệm Gì Khi Đại Lý Của Mình Lừa Đảo?

Sử dụng tư cách là Đại lý chính thức của Công ty bảo hiểm Prudential, Bùi Thị Thu Hằng đã lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm tỷ đồng bằng cách tư vấn các gói bảo hiểm từ 8/2009 đến 11/7/2011. Với nhiều chiêu lừa khác nhau, Bùi Thị Thu Hằng và đồng bọn đã chiếm đoạt của 59 khách hàng trên địa bàn Quảng Ninh số tiền 228.885.600.000 đồng ( Hai trăm hai mươi tám tỷ tám trăm tám mươi lăm triệu, sáu trăm nghìn đồng).

Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phiên sơ thẩm ngày 17/10/ 2013 (Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2013/HSST) và sau đó là bản án hình sự Phúc thẩm số 347/2014/HSPT ngày 27/ 6/ 2014 của Tòa án nhân dân tối cao xử lý tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” qua việc áp dụng điều 42 BLHS và Điều 604 BLDS. Hằng và đồng bọn đã bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc.

Cả 2 bản án này Prudential đều được xem là “bị hại” và không phải bồi hoàn cho các nạn nhân bị đại lý của họ lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên mới đây, Tòa án Nhân dân Tối cao (TANDTC) đã ra kháng nghị hủy 2 bản án trên và xem xét lại tư cách tham gia tố tụng của Prudential cũng như trách nhiệm dân sự của công ty bảo hiểm này.

Nói về trách nhiệm của Prudential khi đại lý của mình lừa đảo trong vụ việc này, thạc sĩ luật Nguyễn Thị Hằng cho biết: “Trách nhiệm hình sự đối với Bùi Thị Hằng trong vụ việc này đã rõ. Hành vi của bị cáo Hằng và đồng phạm là thỏa mãn cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, bên cạnh trách nhiệm hình sự còn là trách nhiệm bồi thường lại số tiền cho những người là nạn nhân.

Lấy tư cách là đại lý của Prudential để thực hiện việc lừa đảo thì trách nhiệm của Prudential trong vụ việc này cần phải được xem xét. Việc xem xét trách nhiệm bồi thường cần dựa trên luật chuyên ngành để xác định trách nhiệm, quan hệ pháp lý giữa Doanh nghiệp bảo hiểm và đại lý bảo hiểm được ủy quyền.

Rõ ràng Prudential phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát đại lý, quản lý hồ sơ chứng từ các đại lý của mình. Chính sự thiếu trách nhiệm này dẫn đến việc Bùi Thị Hằng có cơ hội để thực hiện hành vi lừa đảo. Hơn nữa, đối với một số khách hàng Bùi Thị Hằng đã sử dụng phiếu thu của Prudential. Nguồn tiền từ những phiếu thu đó thuộc về Prudential nên trong vụ việc này không thể loại bỏ hoàn toàn trách nhiệm bồi thường cho khách hàng của Prudential”.

Ngày 17/9/2015, Tòa án Nhân dân Tối cao đã Quyết định ban hành Kháng nghị số 41/2015/KN-HS đối với bản án hình sự phúc thẩm số 347/2014/HSPT ngày 27/6/2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2013/HSST ngày 17/10/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm đã nêu trên để điều tra giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

Theo kháng nghị trên thì từ tháng 1/2011, Công ty bảo hiểm Prudential cũng đã nhận được một số thông tin về việc Bùi Thị Thu Hằng có bán các gói bảo hiểm không nằm trong các gói bảo hiểm theo quy định của Công ty bảo hiểm Prudential và cũng đã phát hiện 02 hồ sơ bảo hiểm giả (của khách hàng mang tên Lê Thị Bé và Lương Thị Ánh Tuyết) nhưng công ty bảo hiểm Prudential không báo cáo các cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra 02 hồ sơ bảo hiểm trên mà chỉ gọi điện cho 02 người mua bảo hiểm để xác minh dẫn đến việc công ty bảo hiểm Prudential cho rằng không đủ bằng chứng để xác dịnh Hằng lợi dụng danh nghĩa công ty để lừa đảo khách hàng, tiếp tục để Hằng làm đại lý bảo hiểm, thể hiện việc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền xử lý. Tháng 3/2011, công ty bảo hiểm Prudential vẫn vinh danh đại lý Bùi Thị Thu Hằng trong bảng vàng của công ty và sau thời gian này Hằng vẫn tiếp tục sử dụng tư cách là đại lý của công ty bảo hiểm Prudential để lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều khách hàng khác.

Điều 88 Luật kinh doanh bảo hiểm cũng quy định “Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm ký kết. Đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm”.

Như vậy, việc thiếu trách nhiệm của Công ty bảo hiểm Prudential trong việc kiểm tra, giám sát đại lý, quản lý hồ sơ chứng từ đã tạo điều kiện để Bùi Thị Thu Hằng lừa đảo chiếm đoạt tiền của khách hàng. Vì vậy, việc cơ quan tiến hành tố tụng xác định công ty bảo hiểm Prudential là nguyên đơn dân sự trong vụ án trên là không phù hợp, bởi lẽ chính vì sự thiếu trách nhiệm trong việc quản lý của công ty bảo hiểm Prudential đã dẫn đến việc lừa đảo của Bùi Thị Thu Hằng. Hơn nữa, Hằng là đại lý chính thức của công ty bảo hiểm Prudential, có những hợp đồng Hằng đã sử dụng phiếu thu thật của công ty bảo hiểm Prudential phát hành ra để thu tiền của khách hàng. Như vậy công ty bảo hiểm Prudential cũng phải có trách nhiệm liên đới với đại lý Bùi Thị Thu Hằng trong việc đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. Do đó cần phải xác định lại tư cách tham gia tố tụng của công ty bảo hiểm Prudential…

Phương Anh/KD&PL

Vai Trò Và Trách Nhiệm Của Đại Lý Bảo Hiểm Trong Hoạt Động Kinh Doanh Bảo Hiểm

1. Đặt vấn đề

Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường bảo hiểm, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự lớn mạnh của ngành bảo hiểm, Luật Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) được Quốc hội thông qua đã tạo một nền tảng pháp lý cho hoạt động bảo hiểm phát triển ở Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn cả nước đã có 29 doanh nghiệp và hơn 30 văn phòng đại diện nước ngoài hoạt động trong tất cả các lĩnh vực bảo hiểm với các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH): công ty bảo hiểm nhà nước, DNBH cổ phần và DNBH có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập và tham gia trong nhiều lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm. Với doanh thu của các loại hình bảo hiểm trên địa bàn cả nước hằng năm đã đạt 900 triệu USD, tốc độ tăng trưởng khoảng 30%/năm, Việt Nam đang được coi là mảnh đất màu mỡ của các tập đoàn KDBH nước ngoài. Bên cạnh sự ra đời và thành công của DNBH không thể không tính đến vai trò của đại lý bảo hiểm (ĐLBH).

Các công ty bảo hiểm muốn kinh doanh hiệu quả, tăng doanh thu, phí bảo hiểm, tăng số lượng hợp đồng khai thác mới, tăng số lượng khách hàng thì phải có một hệ thống đại lý hoạt động hiệu quả, chuyên nghiệp và có tinh thần trách nhiệm cao; đồng thời, tạo niềm tin và sự quảng bá để tăng cường khách hàng tham gia và có điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ bảo hiểm thì hoạt động của các đại lý phải đảm bảo niềm tin cho khách hàng và gắn kết trách nhiệm của đại lý với hoạt động kinh doanh của đại lý và xiết chặt cơ chế quản lý đối với ĐLBH. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến vai trò và trách nhiệm của đại lý trong hoạt động bảo hiểm của DNBH, trên cơ sở đó, đề xuất ý kiến nhằm tăng cường trách nhiệm của ĐLBH góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động KDBH, tạo động lực để hoạt động bảo hiểm trở thành một kênh tài chính hữu hiệu cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế đất nước.

2. Vai trò và trách nhiệm của đại lý bảo hiểm trong quan hệ KDBH

Cá nhân và tổ chức trung gian đứng ra làm chủ thể phân phối bảo hiểm được chính thức ghi nhận với tư cách là “ĐLBH” tại Việt Nam trong Nghị định số 100/NĐ-CP ban hành ngày 18/12/1993: “ĐLBH là cá nhân có đủ điều kiện quy định tại Điều 19 của Nghị định này hoạt động ĐLBH”; Theo quy định tại Điều 19 thì “Hoạt động ĐLBH phải trên cơ sở hợp đồng đại lý ký kết với DNBH. Cá nhân hoạt động ĐLBH phải có đủ các điều kiện sau:

– Là công dân Việt Nam, đang cư trú tại Việt Nam;

– Có bằng tốt nghiệp phổ thông trung học trở lên;

– Không ở trong tình trạng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang thi hành án hình sự hay bị mất trí”.

Như vậy, trong văn bản pháp luật này chưa được ghi nhận cụ thể hoạt động của ĐLBH. Ngày 30/5/1994 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 46-TC/CĐTC hướng dẫn Nghị định 100/NĐ-CP mới chính thức quy định nội dung, phạm vi hoạt động, quyền và nghĩa vụ của ĐLBH đó là:

– Phải thực hiện đúng các điều khoản quy định trong hợp đồng đại lý đã ký với DNBH.

– Không được đồng thời nhận làm đại lý cho một DNBH khác nếu không được sự đồng ý của DNBH mà mình đang làm đại lý.

– Không được phép tiến hành đồng thời các hoạt động khác có quyền lợi đối lập với quyền lợi của DNBH mà mình đang làm đại lý và Thông tư số 76-TC/CĐTC ngày 25/10/1995 quy định về tỷ lệ hoa hồng phí của ĐLBH.

ĐLBH được xem là một chủ thể đứng ra để thực hiện “một giao dịch được ủy quyển” nên công việc của ĐLBH mang tính chất độc lập cao và gắn với trách nhiệm cả về phía khách hàng trong quan hệ bảo hiểm và cả về phía DNBH mà đại lý làm ủy quyền.

Tính đến hết tháng 6 năm 2009, tổng số lượng đại lý có mặt trên thị trường là 82.432 người, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp có số lượng đại lý cao nhất là Prudential 28.040 người, Bảo Việt Nhân thọ là 16.762 người, AIA là 10.569 người.

Số lượng đại lý mới tuyển dụng trong 06 tháng đầu năm 2009 là 48.217 người, tăng 34% so với cùng kỳ năm ngoái, các DNBH có số lượng đại lý mới tuyển dụng nhiều nhất thị trường theo thứ tự là: Prudential, AIA và Dai-ichi Life1.

DNBH có thể ủy quyền cho ĐLBH bán sản phẩm bảo hiểm. ĐLBH có các nghĩa vụ đã được ghi trong Điều 18, Điều 29 và Điều 30 Nghị định số 45 ngày 27/03/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

Trong quan hệ với người tham gia bảo hiểm, trước khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết, ĐLBH là người tư vấn sản phẩm và giải thích những điều khoản trong hợp đồng cho khách hàng hiểu, thu xếp để hợp đồng bảo hiểm được ký kết. Trong giai đoạn này, đại lý có trách nhiệm phân tích nhu cầu và khả năng của khách hàng để tư vấn chọn sản phẩm phù hợp nhất cho mình. Sau khi hợp đồng ký kết, ĐLBH có trách nhiệm giải đáp những thắc mắc trong quá trình tham gia bảo hiểm của khách hàng, giúp khách hàng duy trì hiệu lực hợp đồng và hỗ trợ khách hàng hoàn thành các thủ tục giải quyết bồi thường nếu không may rủi ro xảy ra hoặc thủ tục nhận quyền lợi bảo hiểm khi hợp đồng đáo hạn. Tuy nhiên, ĐLBH không phải là người giải quyết các quyền lợi cho khách hàng, mặc dù họ được công ty giao phó trọng trách mang sản phẩm của công ty đến cho khách hàng, thực hiện các dịch vụ chăm sóc và hỗ trợ khách hàng thực hiện các thủ tục nhận quyền lợi.

Trong quy định của Luật KDBH, cơ chế ràng buộc cũng như trách nhiệm của đại lý trong hợp đồng bảo hiểm chưa được chặt chẽ và chi tiết, để đảm bảo quyền lợi cho DNBH trong hoạt động kinh doanh của mình và khách hàng tham gia bảo hiểm, Điều 88, Luật KDBH quy định: “Trong trường hợp ĐLBH vi phạm hợp đồng ĐLBH, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì DNBH vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do ĐLBH thu xếp giao kết; ĐLBH có trách nhiệm bồi hoàn cho DNBH các khoản tiền mà DNBH đã bồi thường cho người được bảo hiểm”, điều đó đảm bảo quyền lợi cho bên mua bảo hiểm trong trường hợp ĐLBH vi phạm, cho nên đòi hỏi các DNBH phải thắt chặt cơ chế quản lý đối với ĐLBH, cũng như việc tuyển dụng và ký hợp đồng ĐLBH.

Trường hợp ĐLBH vi phạm do việc cung cấp thông tin không trung thực của ĐLBH sẽ dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp này, nếu khôi phục lại tình trạng ban đầu thì bên bị thiệt hại chính là DNBH vì đã phải bỏ ra các chi phí để giao kết và duy trì hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này với việc cung cấp thông tin không trung thực dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng bảo hiểm, trong khi những thông tin sai sự thật đó là cơ sở để người mua bảo hiểm tham gia vào hợp đồng bảo hiểm, việc xử lý hợp đồng vô hiệu ảnh hưởng đến quyền lợi của bên mua bảo hiểm vì đã đóng phí bảo hiểm… Điều đó ảnh hưởng không ít niềm tin của khách hàng đối với DNBH.

Khi có bằng chứng về vi phạm của ĐLBH, quyền lựa chọn cách thức xử lý thuộc về bên mua bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm được cân nhắc hoặc bỏ qua sự vi phạm của đại lý, tiếp tục duy trì hợp đồng hoặc là chấm dứt sự tồn tại của hợp đồng và các bên không ràng buộc các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã cam kết, ràng buộc trong hợp đồng.

Trường hợp hợp đồng được thiết lập bởi hành vi ép buộc giao kết hợp đồng của ĐLBH. Hành vi ép buộc giao kết hợp đồng bảo hiểm trái pháp luật là việc ĐLBH sử dụng ảnh hưởng, các biện pháp hành chính hoặc các hình thức gây sức ép khác để người có nhu cầu bảo hiểm phải tham gia bảo hiểm tại một DNBH.

Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập trong trường hợp này cũng không phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm giao kết hợp đồng.

Trường hợp hành vi vi phạm của ĐLBH có sự kết hợp với bên mua bảo hiểm để cung cấp thông tin sai nhằm hành vi trục lợi bảo hiểm. Trong trường hợp vi phạm của ĐLBH nhưng người chịu trách nhiệm chính lại là bên mua bảo hiểm. Theo quy định của Điều 19 Luật KDBH, thì phương thức xử lý lại gây bất lợi trực tiếp đến bên mua bảo hiểm: “DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi: Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho DNBH”.

Đòi hỏi, phải năng cao trách nhiệm của ĐLBH, tăng cường quản lý đối với kiểm tra, giám sát việc lập hồ sơ bồi thường của DNBH, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc lợi dụng những lỗ hổng trong phương thức quản lý, điều hành của DNBH để trục lợi. Hành vi gian lận, trục lợi trong bảo hiểm có tác động tiêu cực đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm cũng như quyền và lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm, nếu chỉ dừng ở mức xử phạt hành chính như hiện nay, thì việc vi phạm sẽ rất khó hạn chế vì chế tài chưa đủ mạnh để ngăn ngừa và răn đe.

3. Một số ý kiến đề xuất

Để hoạt động KDBH thực sự là một kênh tài chính hữu hiệu cho sự phát triển kinh tế của đất nước thì một đòi hỏi là nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNBH, đặc biệt là DNBH trong nước và hiệu quả cũng như trách nhiệm của ĐLBH, điều đó đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ cả về doanh nghiệp KDBH và ĐLBH:

– DNBH phải xây dựng lại quy chế đào tạo ĐLBH, có quy chế quản lý chặt chẽ đối với ĐLBH, hoạt động ĐLBH. DNBH phải có mối quan hệ chặt chẽ và thường xuyên với Hiệp hội Bảo hiểm để giám sát các hoạt động của ĐLBH. Nhiều ý‎ kiến cho rằng, nên thắt chặt lại cơ chế tuyển dụng đại lý ở các DNBH, đây cũng là giải pháp hữu hiệu để năng cao trách nhiệm và hiệu quả của hoạt động bảo hiểm.

– Bản thân ĐLBH phải tự đào tạo nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của mình.

– Hướng dẫn ĐLBH một cách chi tiết, cụ thể từng nội dung công việc được ủy quyền trong giao kết hợp đồng bảo hiểm.

– Pháp luật quy định rõ nghĩa vụ của đại lý đối với DNBH và thỏa thuận trong hợp đồng đại lý giữa DNBH với ĐLBH; nghĩa vụ của ĐLBH đối với bên mua bảo hiểm cũng như trách nhiệm của đại lý trong việc thông đồng với khách hàng để trục lợi bảo hiểm hoặc lỗi vô ý để khách hàng trục lợi bảo hiểm.

– Xác định trách nhiệm của ĐLBH đối với bên mua bảo hiểm và DNBH trong việc cung cấp thông tin sai sự thật.

– Nâng cao mức trách nhiệm của ĐLBH cũng như chế tài xử phạt đối với hoạt động ĐLBH.

(1) Tổng quan thị trường bảo hiểm 6 tháng đầu năm 2009 của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam. ThS. Lê Thị Thảo – Khoa Luật, Đại học Huế. Nguồn: https://www.nclp.org.vn/

(Pháp luật trực tuyến: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Luật sư Hà Trần